Phân tích Vịnh khoa thi hương của Tú Xương để thấy thái độ mỉa mai lẫn căm uất của nhà thơ khi đối chiếu với cơ chế thi tuyển đương thời cũng như khi đối chiếu với tuyến phố thi tuyển gian nan, lận đận của riêng ông. Với Vịnh khoa thi hương, đã có nhiều ý kiến xoay quanh chủ đề tác phẩm, nhiều người đã nhận định rằng bài thơ đây là tiếng khóc nhưng lại sở hữu người cho đó là tiếng cười đầy châm biếm sâu cay của Tú Xương trước thời cuộc lúc bấy giờ… Hãy cùng Bankstore tìm hiểu và phân tích Vịnh khoa thi hương của Trần Tế Xương.
- Nguyên nhân – Diễn biến và Ý nghĩa lịch sử Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân
- BTW là gì? TẤT TẦN TẬT những kiến thức liên quan đến BTW
- Cuộc chiến trên sông Bạch Đằng năm 938 là gì? Diễn biến – Kết quả – Ý nghĩa của cuộc chiến đó
- Khái niệm về Danh động từ và Gerund phrase là gì? Vị trí – Cách sử dụng và Một vài dạng Bài tập về danh động từ
- C&F là gì? Nội dung và Một số lưu ý của điều kiện C&F
Mở bài: Nếu trong bài thơ Thương vợ, Tú Xương thể hiện một giọng thơ trữ tình đằm thắm da diết pha chút ngậm ngùi chua xót cho thân phận mình.
Bạn đang xem: Phân tích chi tiết bài thơ Vịnh khoa thi hương của Tú Xương – Ngữ Văn 11
“Quanh năm Marketing Thương mại ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nắng âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.”
Nhưng đến với bài thơ Vịnh khoa hương, ta lại phát giác ở Tú Xương một giọng thơ trào phúng rất tân tiến. Tuy nhiên, ẩn sau giọng điệu hài hước ấy là một sự chua xót bất lực trước thời cuộc của đất nước.
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngẩng đầu rồng”
Bài Vịnh khoa thi hương
► “Tài Liệu Thủ Khoa” là kênh học tập chuyên đăng video bài giảng từ các giáo viên và các trang Web dạy trực tuyến hàng đầu Việt Nam .
►Hãy ĐĂNG KÍ kênh để nhận những video bài giảng tiên tiến nhất : http://tinyurl.com/yxax25ez
– Trần Tế Xương 1870 – 1907 tên thường gọi là Tú Xương, ông sinh ra và lớn lên ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Tỉnh Nam Định.
– Ông là một người rất có cá tính và phóng khoáng, sinh ra trong giai đoạn giao thời, xã hội nửa thực dân nửa phong kiến.
– Nét thơ đặc sắc của Trần Tế Xương là thẩm mỹ và nghệ thuật trào phúng, khắc họa chân thực về hiện thực cuộc sống thời bấy giờ.
– Ông còn là một một trong những nhà thơ trữ tình vừa ngọt ngào lại sâu lắng, tiêu biểu trong đó là những bài thơ ông viết về người vợ của mình – bà Tú.
– Trần Tế Xương có nhiều công lao trong việc phát triển tiếng Việt, làm mới thể thơ Đường Luật.
– Ông có tới hơn 100 bài thơ đều viết bằng tiếng Việt, trong đó một số tác phẩm tiêu biểu như: Vịnh khoa thi Hương, Phường nhơ, Văn tế sống vợ… – THƯƠNG VỢ là bài thơ được Trần Tế Xương viết vào trong khoảng time cuối của thế kỉ XIX, nó thể hiện được tình cảm ngọt ngào, hóm hỉnh và chân thực nhất khi đối chiếu với bà Tú.
– Bài thơ là một trong những tác phẩm thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương, được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường Luật.
– Bố cục tổng quan 4 phần:
+ Phần đề: 2 câu thơ đầu
+ Phần thực: 2 câu thơ tiếp
Xem thêm : Phân tích và Dàn ý khái quát về bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh [TOP bài viết HAY NHẤT]
+ Phần luận: 2 câu thơ tiếp
+ Phần kết: đoạn còn sót lại
Sơ nét về tác giả Tú Xương và bài thơ Vịnh khoa thi hương
Trước lúc phân tích Vịnh khoa thi hương, người đọc cần nắm được những nét cơ bản về Trần Tế Xương cùng tác phẩm.
Giới thiệu nhà thơ Tú Xương
Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương, sinh vào năm 1870 mất năm 1907. Ông quê ở Vị Xuyên, Mĩ Lộc, Tỉnh Nam Định, nay là phố Hàng Nâu, tỉnh Tỉnh Nam Định. Bút danh là Tú Xương. Bút danh ấy xuất phát từ thảm kịch cuộc đời ông. Từ thời điểm năm 15 tuổi ông đã bắt đầu đi thi. Trước đó ông từng thi hỏng các kỳ thi khoa Ất Dậu 1885, khoa Mậu Tí 1888, khoa Tân Mão 1891 nhưng đều hỏng.
Vốn tính tình phóng khoáng không gò bó câu nệ quy tắc, ông không phù hợp với các kì thi nên dù thi nhiều lần ông chỉ thi đậu tú tài. Dù không thích nhưng ông vẫn đi thi vì trong xã hội phong kiến đó là nghĩa vụ trách nhiệm của kẻ làm trai như Nguyễn Công Trứ từng mạnh mẽ khẳng định”.
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”
Đi thi đỗ đạt làm quan đây là phương pháp để sẽ tăng thêm phần sức mình cho đất nước. Sau đó ông còn đi thi thêm nhiều khoa như khoa Đinh Dậu 1897, khoa Canh Tý 1900, khoa Quý Mão (1903) và khoa Bính Ngọ 1906. Vì thế đề tài đi thi thường xuất hiện trong thơ Tú Xương trở thành một đề tài quen thuộc. Đến với đề tài này, giọng thơ của Tú Xương vừa có sự phẫn uất, vừa có sự bất lực:
“Thi không ăn ớt thế mà cay”.
Trần Tế Xương cũng từng viết:
“Một việc văn chương thôi cũng nhảm,
Trăm năm thân thế có ra gì?“.
(Buồn thi hỏng)
Nội dung bài thơ Vịnh khoa thi hương
Phân tích Vịnh khoa thi hương sẽ thấy bài thơ này gắn với hoàn cảnh lịch sử vẻ vang đặc biệt quan trọng. Khoa thi Giáp Ngọ trước ông đậu tú tài nên nếu khoa thi Định Đậu này ông đậu cử nhân thì ông có thể ra làm quan giúp ích cho dân cho đời. Thế nên ông đi thi với tâm thế tràn đầy hi vọng nhưng cuối cùng kết quả vẫn hỏng. Hỏng không phải vì ông không giỏi mà vì cơ chế quan liêu mục nát đương thời đã vùi lấp đi tài năng của ông. Đó cũng là lúc những yếu tố ngoại lai cợt nhã xuất hiện trong một cuộc thi vốn nghiêm trang.
Chính cho nên vì vậy mà trong bài thơ không chỉ là việc phẫn uất với cơ chế thi tuyển mục nát mà còn là một nỗi nhục mất nước. Càng cười lại càng đau…Bài thơ đây là bức tranh về một kì thi Hương cuối triều Nguyễn với việc lố lăng và nhốn nháo, sự ô hợp dưới sự giám sát của bọn thực dân Pháp.
Phân tích Vịnh khoa thi hương của Tú Xương
Phân tích Vịnh khoa thi hương của Tú Xương
Đi theo kết cấu của tác phẩm, với những câu thơ đề – thực – luận – kết, người đọc sẽ cảm thấy tiếng cười trào phúng, đầy mỉa mai sâu cay nhưng cũng đầy bất lực của nhà thơ trước thực trạng thi tuyển của nước nhà – Đó đây là ý nghĩa khi phân tích Vịnh khoa thi hương của Tú Xương.
Hai câu đề: Giới thiệu về trường thi, hoàn cảnh thi
Hai câu đề đã gợi mở hoàn cảnh của cuộc thi:
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà”
“Nhà nước” thời bấy giờ được mặc định đây là triều đình mà đứng đầu là vua. Chính triều đình đứng ra tổ chức thi tuyển nhằm mục tiêu tuyển chọn nhân tài giúp dân giúp nước. Tuy khi đó nước ta chịu sự “bảo lãnh” của Pháp nhưng vẫn tổ chức thi tuyển theo quy cũ Hán Học. Một kỳ thi nghiêm túc “ ba năm mở một khoa” cho thấy tính nghiêm trang của kỳ thi.
Thế nhưng khi phân tích Vịnh khoa thi hương, ta thấy ở câu sau tác giả đã đưa vào một trong những sự hỗn tạp xô vô. Trường Nam và Trường Hà trộn lẫn, vàng thau lẫn lộn. Sự lẫn lộn này đã cho thấy sự xuống cấp trầm trọng suy thoái và khủng hoảng của nhà nước. Đời Nguyễn, ở Bắc Kỳ kỳ thi Hương được tổ chức ở hai hội đồng thi khác nhau. Đó là hội đồng thi ở Tỉnh Nam Định và hội đồng thi ở Hà Nội Thủ Đô. Sĩ tử gần trường thi nào sẽ thi ở trường thi đó. Rạch ròi tách bạch không có sự trộn lẫn. Đó đây là nề nếp, sự tôn nghiêm của kỳ thi.
Nhưng từ sau thời điểm Pháp “bảo lãnh” nước ta, trường thi Hà Nội Thủ Đô đã trở nên chiếm. Đó là lí do dẫn đến cái sự hỗn tạp nhố nhăng lẫn lộn này. Tất cả sĩ tử dồn về một nơi. Phân tích Vịnh khoa thi hương, người đọc sẽ hiểu thâm thúy về tình cảnh vô cùng hỗn lộn không còn cái sự trang nghiêm của một kỳ thi nơi “cửa Khổng sân Trình”. Nếu ở câu đầu là việc nghiêm túc thì ở câu sau lại là một sự hỗn loạn. Một bức tranh đối lập với những nét chạm khắc đầu tiên hiện ra nơi khung cảnh trường thi. Vài cái nét hỗn độn ấy đây là nét chung nhất của bức tranh trường thi.
Hai câu thực: Khung cảnh cụ thể về trường thi
Tuân theo mô hình đề – thực – luận – kết thì hai câu tiếp theo đây là khung cảnh phác họa cụ thể hơn về khung cảnh trường thi.
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”
Phân tích Vịnh khoa thi hương, ta thấy rằng biện pháp quần đảo ngữ kết phù hợp với từ láy đã tạo hiệu ứng đặc biệt quan trọng cho dòng thơ. “Lôi thôi” đây là từ láy tượng hình diễn tả sự nhếch nhác không quy tắc chuẩn mực. Sĩ tử đây là những thí sinh tham gia dự thi, là những nhân tài tương lai của đất nước.
Nhưng nực cười thay hình ảnh những ông nghè, ông cử, tiến sĩ tương lai của đất nước lại hiện ra lôi thôi nhếch nhác. Sự nhếch nhác ấy tới từ ngoại hình “vai đeo lọ”. Đây vốn là hình ảnh quen thuộc của những sĩ tử đi thi. Lọ ở đây có thể là lọ đựng mực, bút, sách hay lọ cũng sẽ có thể là lọ đựng nước. Tuy không nói cụ thể nhưng ta vẫn cảm nhận cái hình ảnh vốn trang nghiêm ấy lại bị hạ bệ bởi chính những người dân đi thi. Ngay từ ngoại hình dường như không chuẩn mực thì nói gì đến tài năng, nhân cách cũng như sự sẽ tăng thêm phần cho đất nước.
Phân tích Vịnh khoa thi hương, người đọc bỗng nhận ra dường như trong đám sĩ tử ấy cũng sẽ có cả hình ảnh ông Tú trong đó. Hán học suy tàn vào thời gian cuối mùa thì những sĩ tử theo nghiệp nho học như ông có đi thi thì cũng chẳng có ý nghĩa gì, như một sự níu kéo chút tôn nghiêm của cùng của những kẻ sĩ Hán học sắp tàn
“Sĩ khí rụt rè gà phải cáo
Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi”
Xem thêm : Airdrop là gì?Airdrop bounty là gì? Lý do nên sử dụng Airdrop
Đối lại với hình ảnh sĩ tử là hình ảnh của quan trường
“Ậm ọe quan trường miệng thét loa”
Từ tượng thanh “ậm ọe” đã phơi bày và làm rõ thêm sự nhố nhăng tới từ nơi thi tuyển. Không chỉ là sĩ tử lôi thôi nhếch nhác mà cả những vị quan trường vốn mang tiếng trang nghiêm cũng hiện ra nhếch nhác lôi thôi. “Ậm ọe” thể hiện đám quan lại mất đi cái phong thái tôn kính và trang nghiêm của kẻ làm quan.
“Miệng thét loa” gợi ra một khung cảnh có phần nhộn nhịp mà nếu chỉ nghe ba từ này ta sẽ sở hữu được cảm giác ở nơi phố chợ sầm uất hay ở một liên hoan tiệc tùng nào đó. Nhưng thực bất ngờ này lại là ở nơi trường thi uy nghiêm tiên phong hàng đầu. Ậm ọe gợi chuỗi âm thanh không rõ ràng thường dùng để làm gợi tả âm thanh của những đứa trẻ đang tập nói mà nhà thơ lại dùng từ này để chỉ các vị quan. Lại thêm một sự hạ bệ. Hai câu thơ đối song song đã cho thấy được khung cảnh tại trường thi như một mớ hỗn tạp giống tình cảnh của đất nước lúc bấy giờ…
Phân tích Vịnh khoa thi hương sẽ thấy càng đi sâu vào bức tranh chốn trường thi ta càng thấy sự suy vi của Hán học và sự suy vi của tất cả xã hội trong thời đại loạn lạc. Hai tầng lớp cao quý trong xã hội là sĩ tử và quan trường nhưng trong bức vẽ của Tú Xương lại hiện ra trần tục mất đi vẻ nho nhã thư sinh, vẻ tôn nghiêm. Những thay mặt của Hán học cũng mất đi cái vẻ cao cao tại thưởng vốn có. Từ này đã gợi sự suy tàn của cơ chế phong kiến.
Hai câu luận: Cảnh đón rước quan sứ và phu nhân
Tác giả đã phá hai câu luận, mà thay vào đó là những nét khắc họa cụ thể hơn vào bức tranh chốn quan trường.
“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra”
Đó là nét phác họa về ông Tây và mụ đầm. Hai yếu tố ngoại lai xuất hiện trong bức tranh trang nghiêm của chốn thi tuyển Hán Học mang dấu ấn đặc trưng phương Đông. Đây đây là yếu tố ngoại lai gắn liền với lịch sử vẻ vang.
Phân tích Vịnh khoa thi hương của Tú Xương, ta thấy theo nghiên cứu của đa số nhà sử học, hai nhân vật đến dự đó là toàn quyền Paul Doumer và vợ chồng tên công sứ Tỉnh Nam Định Le Normand. Thế nhưng nực cười hơn ở trong phần sĩ tử không cúi mình lạy quan vốn chỉ lạy vua thì nay lại phải cúi rạp mình xuống để lạy ông tây bà đầm. Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh uy nghiêm như một tín hiệu đáng vui trong bức tranh châm biếm này thì tiếp đến là “váy lê quét đất mụ đầm ra”.
“Trên ghế, bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân, ông cử ngỏng đầu rồng”
Mọi sự uy nghiêm bị phá vỡ. Và đáng buồn hơn nó cò gợi ra tình cảnh mất nước nhục nhã. Cái nhục không chỉ của sĩ tử nơi trường thi mà là cái nhục quốc thể của mỗi người dân. Vốn nơi trường thi không được xuất hiện bóng hình của nữ nhi nhưng ở đây “bà đầm” lại xuất hiện không phải với trang phục trang nghiêm mà là “váy lê quét đất”.
Những sĩ tử ấy vậy mà phải cúi đầu trước cái “váy lê quét đất” ấy. Váy lê, áo tôm là những hình ảnh nực cười. Đó là trang phục dự tiệc dạ hội không phù phù hợp với nơi hàng ngàn sĩ tử ăn vận trang nghiêm. Hai nét khắc họa khiến cho con người trở nên lạc lõng hơn. Đây là chốn trường thi hay là nơi liên hoan tiệc tùng, đây là chốn trang nghiêm hay nơi để đùa vui. Đau đớn và chua chát cho thận phận của mình. Và ẩn sau này còn là việc chua xót ngậm ngùi cho tình cảnh mất nước.
Hình ảnh các quan trong tác phẩm Vịnh khoa thi hương
Hai câu kết: Lời kêu gọi đến những kẻ sĩ của nhà thơ
Kết lại bài thơ lại là một hình ảnh thơ chua xót:
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”.
Đây đây là nỗi nhục nhã mà Nguyễn Tuân nói “Không đỗ cũng cực, mà đỗ để phải phủ phục xuống mà lạy Tây, lạy cả đầm, thì quả là nhục”. Trên ghế, dưới sân hai không gian khác nhau thể hiện vị thế khác nhau. Từ bao giờ mà ông tây bà đầm lại trở nên uy quyền như vậy. Điều đó chỉ xuất hiện trong tình cảnh đất nước dần bị thực dân hóa. Đó là tín hiệu rõ ràng nhất cho việc mất nước, như một hồi chuông báo động vang lên. Đây là hình ảnh tả thực xuất phát từ tấm lòng băn khoăn trước hiện thực đất nước đồng thời cũng là những điều tai nghe mắt thấy của Tú Xương.
Một sự hạ bệ từ cái đáng trân trọng lại thành cái nhố nhăng, từ cái không được tôn trọng lại được kết phù hợp với những nghi lễ uy nghi tiên phong hàng đầu. Từ này mà tiếng cười bật ra. Nhưng dường như thể một nụ cười bất lực vì không thể làm gì khác đi. Cho nên vì thế câu thơ là một vướng mắc hỏi người mà dường như cũng hỏi mình. Cái vòng luẩn quẩn không lối thoát cũng chẳng biết làm gì trước tình cảnh đất nước.
(…) Kẻ chức bồi, người tước cu li
Thông ngôn, kí lục chi chi
Mãn đời lính tập, trọn vì quan sang!”
(Á tế Á ca)
Nhìn nhận tác phẩm khi phân tích Vịnh khoa thi hương
Phân tích Vịnh khoa thi hương, ta thấy bài thơ mang tính trào phúng châm biếm thâm thúy nhưng ẩn sâu nụ cười ấy lại là một tiếng thở dài của nhà thơ. Thở dài trước tình cảnh nhố nhăng, trước sự suy vi của đất nước cũng là của Hán học. Sự nhố nhăng kệch cỡm ấy càng khiến những người dân nặng lòng với đất nước cũng đành ngao ngán lắc đầu bất lực. Văn pháp tả thực kết phù hợp với văn pháp trào phúng xuất sắc đã tái hiện lại khung cảnh trường thi mà thông qua đó ta cảm nhận được tấm lòng của thi nhân.
Kết bài: Bài thơ kết lại ta vừa đọc vừa cười và sau đó là đau nhói. Đó đây là giá trị của tác phẩm, cũng chính vì điều này mà nó không trôi tuột bởi thời gian mà ngày càng đọng lại khắc sâu vào tâm trí người đọc. Đó mới đây là giá trị của sáng tác Tú Xương.
Dàn ý phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương của Trần Tế Xương
Để giúp đỡ bạn nắm được ý nghĩa của tác phẩm, nội dung cũng như thẩm mỹ và nghệ thuật của bài thơ, Bankstore sẽ giúp đỡ bạn lập dàn ý phân tích Vịnh khoa thi hương một cách tổng quát, rõ ràng và rất giản đơn hiểu.
Mở bài phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương của Tú Xương
- Đôi nét về nhà thơ Tú Xương cùng giá trị của tác phẩm Vịnh khoa thi hương.
- Dẫn dắt vào việc: phân tích Vịnh khoa thi hương.
Thân bài phân tích Vịnh khoa thi hương của Tú Xương
- Đề cập nội dung bài thơ Vịnh khoa thi hương.
- Hai câu đề: Hoàn cảnh thi, giới thiệu về trường thi.
- Hai câu thực: Khung cảnh chi tiết cụ thể về trường thi.
- Hai câu luận: Cảnh rước quan sứ và phu nhân ngay tại trường thi.
- Hai câu kết: Sự thức tỉnh các sĩ tử của tác giả.
Kết bài phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương của Tú Xương
- Khẳng định nội dung cùng ý nghĩa của tác phẩm Vịnh khoa thi hương.
- Đề cao tấm lòng của nhà thơ Tú Xương với đất nước.
- Bộc bạch suy nghĩ của chính bản thân mình khi phân tích Vịnh khoa thi hương của tác giả.
Như vậy với thẩm mỹ và nghệ thuật trào phúng đầy thâm thúy và chua cay, cùng với ngôn ngữ miêu tả sắc cạnh, cách sử dụng phép đối trong các câu thơ, giọng điệu đầy mỉa mai…tác giả Tú Xương đã tái hiện phần nào sự hỗn tạp, đầy nhốn nháo của xã hội thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ. Không chỉ có vậy, phân tích Vịnh khoa thi hương, ta còn thấy tâm sự của tác giả Trần Tế Xương trước cảnh tình của nước nhà, thông qua đó thêm trân trọng tấm lòng yêu nước của ông.
Trên đây là những phân tích Vịnh khoa thi hương được Bankstore tổng hợp chọn lọc. Mong rằng nội dung bài viết đã cung cấp cho bạn những lời văn hữu ích phục vụ cho quá trình tìm hiểu cũng như phân tích Vịnh khoa thi hương. Chúc bạn luôn học tốt!. Nếu thấy hay hãy nhờ rằng share nhé!.
Xem thêm:
- Phân tích bài thơ Thương vợ của Tú Xương – Văn học 11
- Phân tích Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ – Văn 11
- Cảm nhận và phân tích Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương – Văn 11
- Phân tích bài thơ Thu điếu – Phân tích bài thơ Câu cá ngày thu
Nguồn: https://bankstore.vn
Danh mục: Giáo Dục