X
    Categories: Giáo Dục

Nguyên nhân – Tóm tắt diễn biến – Kết quả và Ý nghĩa lịch sử của Cuộc khởi nghĩa bà Triệu (năm 248)

Khởi nghĩa Bà Triệu là một cuộc nổi dậy mạnh mẽ và tiêu biểu trong lịch sử dân tộc nước ta. Cuộc khởi nghĩa này là việc kết tinh của quá trình đấu tranh không mệt mỏi. Cùng Bankstore tìm hiểu về nguyên nhân, toàn cảnh lịch sử dân tộc, diễn biến cũng như giá trị lịch sử dân tộc và ý nghĩa khởi nghĩa Bà Triệu qua nội dung bài viết sau này nhé!

Khởi nghĩa Bà Triệu 248


Phim phim hoạt hình Việt Nam :

Bà Triệu , còn được gọi là Triệu Ẩu , Triệu Trinh Nương , Triệu Thị Trinh , Triệu Quốc Trinh (225–248), là một trong những vị anh hùng dân tộc bản địa trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Sử gia Ngô Sĩ Liên ở thế kỷ 15 viết:

Triệu Ẩu (tức Bà Triệu) là người con gái ở quận Cửu Chân, họp quân trong núi, đánh phá thành ấp, các bộ đều theo như bóng theo như hình, thuận tiện hơn trở bàn tay. Tuy chưa chiếm giữ được đất Lĩnh Biểu như việc cũ của Trưng Vương, nhưng cũng là bậc hùng tài trong nữ giới.

Sử nhà Nguyễn ở thế kỷ 19 đã và đang chép:

Con gái nước ta có nhiều người hùng dũng lạ thường. Bà Triệu Ẩu thật xứng danh là người sánh vai được với Hai Bà Trưng. Xem thế thì há có phải chỉ Trung Quốc mới có đàn bà danh tiếng như chuyện Thành Phu Nhân và Nương Tử Quân mà Bắc sử đã chép đâu.

Toàn cảnh

Năm 226, Sĩ Nhiếp mất, vua Đông Ngô là Tôn Quyền bèn chia đất từ Hợp Phố về bắc thuộc Quảng Châu Trung Quốc dùng Lữ Đại làm thứ sử; từ Hợp Phố về nam là Giao Châu, sai Đại Lương làm thái thú; và sai Trần Thì làm thái thú quận Giao Chỉ. Lúc bấy giờ, con của Sĩ Nhiếp là Sĩ Huy tự nối ngôi và xưng là thái thú, liền đem binh chống lại.

Map Tam quốc năm 262, Đông Ngô kiểm soát Giao châu.

Thứ sử Lữ Đại bèn xua quân sang đánh dẹp. Do nghe lời chiêu dụ, Sỹ Huy cùng năm bạn bè ra hàng. Lữ Đại giết chết Huy, còn mấy bạn bè thì đem về đất Ngô làm tội. Dư đảng của Sỹ Huy tiếp tục chống lại, khiến Lữ Đại mang quân vào Cửu Chân giết hại một lúc hàng vạn người.

Cuộc đời và sự nghiệp

Bà Triệu sinh vào năm Bính Ngọ (226) tại miền núi Quân Yên (hay Quan Yên), quận Cửu Chân, nay thuộc làng Quan Yên (hay còn gọi là Yên Thôn), xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.

Thuở nhỏ cha mẹ đều mất sớm, Bà Triệu đến ở với anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng ở Quan Yên.

Lớn lên, bà là người dân có sức mạnh, giỏi võ nghệ, lại sở hữu chí lớn. Đến độ 20 tuổi gặp phải người chị dâu (vợ ông Đạt) ác nghiệt , bà giết chị dâu rồi vào sinh sống trong núi Nưa (nay thuộc các xã Tân Ninh huyện Triệu Sơn, Mậu Lâm huyện Như Thanh, Trung Thành huyện Nông Cống, Thanh Hoá), chiêu tập được hơn ngàn tráng sĩ.

Năm Mậu Thìn (248), thấy quan lại nhà Đông Ngô (Trung Quốc) tàn ác, dân khổ sở, Bà Triệu bèn bàn với anh việc khởi binh chống lại. Lúc đầu, anh bà không tán thành nhưng sau chịu nghe theo ý kiến của em.

Từ hai địa thế căn cứ núi vùng Nưa và Yên Định, hai bạn bè bà dẫn quân đánh chiếm quận lỵ Tư Phố nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã. Đây là địa thế căn cứ quân sự chiến lược lớn của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân, đứng đầu là Tiết Kính Hàn. Thừa thắng, lực lượng nghĩa quân chuyển hướng xuống hoạt động ở vùng đồng bằng dòng sông này.

Đang lúc ấy, Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời. Các nghĩa binh thấy bà làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ. Khi ra trận, Bà Triệu mặc áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi và được tôn là Nhụy Kiều tướng quân.

Được tin cuộc khởi nghĩa lan nhanh, vua Ngô là Tôn Quyền liền phái tướng Lục Dận (cháu của Lục Tốn), sang làm thứ sử Giao Châu, An Nam hiệu uý, đem theo 8.000 quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Đến nơi, tướng Lục Dận liền dùng của cải mua chuộc một số lãnh tụ địa phương để làm suy yếu và chia rẽ lực lượng nghĩa quân.

Những trận đánh ác liệt đã diễn ra tại địa thế căn cứ Bồ Điền . Song do chênh lệch về lực lượng và không có sự hỗ trợ của nhiều trào lưu đấu tranh khác nên địa thế căn cứ Bồ Điền bị phong bế cô lập, và chỉ tại vị được trong hơn hai tháng.

Theo Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược, bà chống đỡ với quân Đông Ngô được năm sáu tháng thì thua. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng (xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) vào năm Mậu Thìn (248), lúc mới 23 tuổi. Có giai thoại nói rằng tướng giặc tận dụng việc phận nữ nhi đã truất bỏ y phục trên người khiến Bà Triệu từ đó xấu hổ mà dẫn đến tự tử.

Tìm hiểu sơ lược về khởi nghĩa Bà Triệu

Toàn cảnh lịch sử dân tộc của cuộc khởi nghĩa

Bà Triệu mang tên thật là Triệu Thị Trinh, là em gái của Triệu Quốc Đạt – một hào trưởng ở miền núi huyện Quan Yên, thuộc quận Cửu Chân (nay là huyện Yên Định, Thanh Hóa). Bà là một người dân có sức khoẻ, có chí lớn và giàu mưu trí. Bà đã cùng anh trai tập hợp nhiều nghĩa sĩ trên đỉnh núi Nưa để mài gươm luyện võ, sẵn sàng chuẩn bị cho khởi nghĩa vào năm 19 tuổi.

Thời điểm cuối thế kỷ II đến vào đầu thế kỷ III, nước ta nằm dưới quyền thống trị của Sĩ Nhiếp. Vào năm 226, sau lúc Sĩ Nhiếp, con là Sĩ Huy chống lại nhà Ngô, nổi binh để giữ quận Giao Chỉ. Nhà Ngô đã sai thứ sử Lữ Đại đem đại binh vượt biển sang để đàn áp Sĩ Huy. tổ ấm Sĩ Huy cùng với nhiều tướng bị giết, hàng vạn nhân dân Cửu Chân khởi nghĩa cũng biến thành tàn sát.

Nhân dân Giao Chỉ, Cửu Chân bị áp bức, bóc lột rất nặng nề dưới ách thống trị của nhà Ngô. Vì vậy, mà người Giao Chỉ, Cửu Chân dường như không ngừng nổi dậy để chống lại ách thống trị của nhà Đông Ngô. Trong số đó, cuộc khởi nghĩa Bà Triệu là một cuộc khởi nghĩa lớn số 1, có tác động mạnh mẽ tới dân chúng.

Diễn biến khởi nghĩa bà Triệu (năm 248)

Vào năm 248, cuộc khởi nghĩa do tướng Triệu Quốc Đạt cùng với em gái là Triệu Thị Trinh (Bà Triệu) lãnh đạo được phát triển nhanh. Bà Triệu đã làm hịch truyền lượn mọi chỗ trên đất nước để kể tội nhà Ngô. Và kêu gọi nhân dân đứng lên để đánh đuổi quân xâm lược.

Bà Triệu cùng với nghĩa quân đã vượt sông Mã xuống vùng Bồ Điền để xây dựng cứ địa. Về quân sự chiến lược, nơi này còn có đầy đủ những yếu tố để xây dựng một địa thế căn cứ thuận lợi cho tất cả thế tấn công và phòng thủ. Từ đây, quân đội có thể ngược sông Lèn ra sông Mã, rồi rút lên mạn Quân Yên hoặc tới địa thế căn cứ núi Nưa khi cần. Ngoài ra, còn tồn tại thể dữ thế chủ động tấn công ra phía Bắc theo lối Thần Phù để khống chế địch.

Nhờ vào địa hình hiểm trở ở Bồ Điền, Bà Triệu đã cùng với bạn bè họ Lý là Lý Hoằng Công, Lý Mỹ Công và Lý Thành Công chỉ huy nghĩa quân và xây dựng một khối hệ thống đồn lũy vững chắc. Nghĩa quân ngày một lớn mạnh, khắp hai quận Cửu Chân, Giao Chỉ, nhân dân một lòng hưởng ứng cuộc đấu tranh cứu nước của Bà Triệu.

Những thành ấp của giặc Ngô ở Cửu Chân lần lượt bị hạ. Nghĩa quân đã tấn công quận lỵ Tư Phố, là địa thế căn cứ quân sự chiến lược của nhà Ngô tại Cửu Chân. Thừa thắng, nghĩa quân đã chuyển hướng hoạt động tại vùng đồng bằng sông Mã.

Từ Cửu Chân, cuộc khởi nghĩa Bà Triệu đã nhanh chóng lan ra Giao Chỉ, vào tận Cửu Đức. Thứ sử Châu Giao bị giết, những quan lại đô hộ ở Châu Giao đã mất sức hoảng sợ. Nhà Ngô thừa nhận năm 248, toàn thể Châu Giao bị náo động.

Khi anh trai Triệu Quốc Đạt bị tử trận, Bà Triệu đã trở thành người lãnh đạo nghĩa quân. Nghĩa quân tiếp tục chiến đấu nhiều trận liên tiếp, thế lực của khởi nghĩa ngày càng mạnh, quân số lên tới hàng vạn người.

Trước tình hình này, cơ quan ban ngành đô hộ cử Lục Dận làm Thứ sử Giao Châu mang theo 8.000 quân tiếp viện để đàn áp cuộc khởi nghĩa Bà Triệu. Lúc đến đất Giao Châu, Thứ sử Lục Dận đã sử dụng tiền bạc để sở hữ chuộc một số thủ lĩnh của nhiều cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ ở địa phương. Hoàng Ngô cùng một số thủ lĩnh và ba ngàn hộ ở Cao Lương đã đầu hàng.

Giao Chỉ được ổn định, Lục Dận dốc toàn bộ lực lượng để tấn công Cửu Chân. Cuộc tấn công được kéo dài thêm hơn hai tháng, nhưng địa thế căn cứ Bồ Điền vẫn tại vị. Điều này đã khiến lực lượng giặc bị tổn thất nặng nề, Lục Dận phải điều thêm binh sĩ để tăng cường phong bế.

Lục Dận tiếp tục tập trung lực lượng tấn công vào các doanh trại của nghĩa quân. Về mặt tổ chức và vũ khí thfi quân Ngô hơn nhiều quân khởi nghĩa Bà Triệu. Khiến cho quân khởi nghĩa dần suy yếu và tan vỡ.

Vào trong ngày 22 tháng hai năm Mậu Thìn, Bà Triệu và nghĩa quân đã chiến đấu vô cùng dũng cảm để phá vòng vây của địch và rút về núi Tùng. Bà đã quỳ xuống vái trời đất: “Sinh vi tướng, tử vi thần” (Sống làm tướng, chết làm thần) rồi rút gươm để tự vẫn.

Hình ảnh về cuộc khởi nghĩa bà Triệu

Kết quả cuộc khởi nghĩa Bà Triệu là gì?

  • Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu bị đàn áp dã man.
  • Bà Triệu hi sinh trên núi Tùng (Phú Điền – Hậu Lộc – Thanh Hóa).

Giá trị lịch sử dân tộc và ý nghĩa khởi nghĩa Bà Triệu

Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu có một ý nghĩa lịch sử dân tộc vô cùng to lớn. Cuộc khởi nghĩa là mốc son trên phần đường chống ngoại xâm của dân tộc bản địa trong suốt 10 thế kỷ. Không chỉ làm rung chuyển cơ quan ban ngành đô hộ, mà cuộc khởi nghĩa còn góp phần thức tỉnh ý chí dân tộc bản địa, tạo bước đà cho cuộc khởi nghĩa của Lý Bí sau này.

Đây là một trong những cuộc nổi dậy tiêu biểu, mạnh mẽ và rộng lớn số 1. Cuộc khởi nghĩa này là đỉnh cao của trào lưu nhân dân thế kỷ II – III. Cuộc khởi nghĩa nổ ra ngay trong thời kỳ bọn đô hộ có lực lượng hùng mạnh và đang xuất hiện dã tâm đồng hóa dân ta.

Nói theo một cách, cuộc khởi nghĩa Bà Triệu là việc kết tinh của phần đường đấu tranh không ngừng nghỉ nghỉ, mệt mỏi của nhân dân ta. Cuộc khởi nghĩa đã để lại những bài học kinh nghiệm lịch sử dân tộc về việc tổ chức lực lượng, về phương thức đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

Nội dung bài viết trên đây của Bankstore đã cung cấp những thông tin về cuộc khởi nghĩa Bà Triệu. Hy vọng những nội dung trên đã mang đến cho bạn những kiến thức hữu ích về nguyên nhân, diễn biến cũng như ý nghĩa cuộc khởi nghĩa bà Triệu. Chúc bạn luôn học tốt!

 

Nguyễn Thế Hoàng: Là một người đam mê tìm hiểu về kinh doanh, tài chính, ngân hàng, chuyên hỗ trợ tư vấn doanh nghiệp về các thủ tục pháp lý, cách thành lập công ty, làm báo cáo thuế, bảo hiểm.