Phân tích bài thơ Qua đèo ngang của Bà huyện Thanh Quan, ta sẽ thấy đây là một kiệt tác về cảnh đèo ngang trong một buổi chiều tà và nỗi niềm tâm sự của người nữ sĩ trên bước đường tha hương khi đứng trước đình đèo bát ngát. Cùng Bankstore tìm hiểu, cảm nhận và phân tích bài thơ Qua đèo ngang trong nội dung nội dung bài viết trong tương lai.
- Phân tích chi tiết bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương [HAY NHẤT]
- Nguyên nhân – Diễn biến – Kết quả và Giá trị lịch sử của Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40)
- Khái niệm về Danh động từ và Gerund phrase là gì? Vị trí – Cách sử dụng và Một vài dạng Bài tập về danh động từ
- Cinnarizin là thuốc gì? Những thông tin cần thiết liên quan đến Cinnarizin
- Phân tích và Nêu cảm nhận về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên – Ngữ Văn 8
Trong thế kỷ XVIII, XIX trên thi đàn văn học Việt Nam xuất hiện những người dân nữ sĩ tài ba, điển hình như Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà huyện Thanh Quan… Trong vườn hoa thẩm mỹ và nghệ thuật ấy, mỗi nữ sĩ lại là một đóa hoa mang hương sắc riêng “mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” đã làm đẹp cho đất trời non nước. Bà huyện Thanh Quan như một ngôi sao sáng văn học với nhiều tác phẩm để lại dư âm trong tâm hồn bạn đọc, nổi bật hơn là là ý thơ “Qua đèo ngang”. Khi phân tích bài thơ Qua đèo ngang, tất cả chúng ta sẽ thấy được vẻ đẹp nội dung cũng như thẩm mỹ và nghệ thuật của tác phẩm.
Bạn đang xem: Cách phân tích bài thơ Qua đèo ngang của Bà huyện Thanh Quan [HAY NHẤT]
Qua đèo Ngang – Ngữ văn 7 – Cô Tạ Minh Thủy
Qua đèo Ngang là một tác phẩm của Bà Huyện Thanh Quan. Đây là bài thơ hay được sử dụng làm đề thi.
Bài thơ được phân tích bởi cô giáo Đỗ Phương Thảo. Giáo viên dạy giỏi của Novateen.
Bài thơ “Qua đèo Ngang” được sáng tác khi tác giả vào Phú Xuân (Huế) nhận chức và đi qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, nhớ quê nhà và thương cho thân gái nơi đường xa.
Hai câu đề gợi lên trước mắt người đọc khung cảnh hoang sơ nơi đèo Ngang:
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, lá chen hoa
Không gian và thời gian ở đèo Ngang được tác giả thể hiện qua từ “bóng xế tà”. Nói theo cách khác đây là thời gian là cảm xúc trong tim người dường như nặng nề, gợi buồn, gợi sầu hơn. Trong ca dao, dân ca, tất cả chúng ta vẫn phát giác thời điểm chiều tả để đặc tả nỗi buồn không biết giãi bày cùng ai. Mắt trời xuống núi, hoàng hôn sắp che phủ lấy nơi này. Cảm giác cô đơn, lạc lõng. Cảnh vật thiên nhiên nơi đây dường như quạnh quẽ đến nao lòng. Chỉ có cỏ cây và hoa. Điệp từ “chen” dường như đã làm tăng thêm tính chất hiu quạnh của địa danh này. Hoa lá đang quấn quýt lấy nhau, bám chặt nhau để sống, sinh sôi.
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Đến hai câu thực thì mới có thể thấp thoáng hình ảnh con người, nhưng cũng chỉ là “tiều vài chú”. Hóa ra chỉ là một vài chú tiều bé nhỏ đi nhặt củi ở dưới chân núi. Mặc dù có sự sống nhưng mong manh và hư vô quá. Với phép quần đảo trật tự cú pháp ở hai câu thơ này, Bà Huyện Thanh Quan đã một lần nữa nhấn mạnh vấn đề sự hoang sơ, hịu quạnh của đèo Ngang. Việc sử dụng hai từ láy “lom khom” và “lác đác” vừa chỉ hoạt động gánh củi vất vả vừa chỉ ước tính số lượng cụ thể. Những hình ảnh ước lệ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đã lột tả hết thần thái cũng như cảm xúc của tác giả lúc đó. Những sự sống hiếm hoi, lẻ loi và mong manh đang lẩn vẩn ở ngay trước mắt nhưng xa lắm. Muốn tìm bạn để tâm sự cũng trở nên khó khăn.
Sang đến hai câu thơ luận thì cảm xúc và tâm sự của tác giả bỗng nhiên trỗi dậy
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái da da
Điệp âm “con cuốc cuốc” và “cái da da” đã tạo nên âm hưởng dìu dặt, du dương nhưng vô cùng não nề thấm đến tâm can. Người lữ khách đường xa nghe vẳng vẳng tiếng cuốc và da da kêu mà lòng quạnh hiu, buồn tái tê. Thủ pháp lấy động tả tĩnh của tác giả thật đắc điệu, trên cái nền tĩnh lặng, quanh quẽ bồng nhiên có tiếng chim kêu thực sự càng thêm não nề và thê lương. Nghe tiếng cuốc, tiếng da da mà tác giả “nhớ nước” và “thương nhà”. Thương cảnh nước nhà đang chìm trong cảnh loạn lạc, gia đình li tan; thương cho thân gái phải xa nhà quạnh hiu, đơn độc. Nỗi lòng của bà huyện thanh quan như sâu thẳm tầng mây, trùng trùng điệp điệp không dứt.
Hai câu thơ kết thì cảm xúc và nỗi niềm của tác giả được đưa lên đỉnh điểm
Xem thêm : Nêu cảm nhận và Cách phân tích bài thơ Thương Vợ của Tú Xương – Ngữ Văn 11
Nghỉ chân nghỉ lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Chỉ bốn chữ “nghỉ chân nghỉ lại” đã và đang khiến người đọc cảm thấy da diết, bồn chốn đến não nề. Cảnh trời nước mênh mông, vô tận nhưng con người thì bé nhỏ khiến cho tác giả thấy mình lạc lõng và không một nơi bấu víu. Đất trời rộng lớn, tác giả chỉ cảm thấy còn “một mảnh tình riêng”. Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có “ta với ta”. Nỗi buồn dường như trở nên cực độ, buồn thấu tận tâm can, buồn nghiêng ngả trời đất.
Bài thơ “Qua đèo Ngang” với giọng điệu da diết, trầm bổng, du dương và những thủ pháp thẩm mỹ và nghệ thuật độc đáo đã mang đến cho tất cả những người đọc cảm xúc khó quên. Dư âm của bài thơ dường như còn vang vọng đâu đây.
Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận kết. Chỉ 8 câu thơ nhưng nó đã diễn tả được hết cái thần thái, cái hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời núi hiu quạnh và lòng người man mác như vậy này.
Đôi nét về Bà huyện Thanh Quan và tác phẩm Qua đèo ngang
Bà huyện Thanh Quan vốn xuất thân trong gia đình quý phái cuối thời Lê – Trịnh ở đất kinh kỳ Thăng Long. Chồng bà làm quan huyện Thanh Quan (tỉnh Tỉnh Thái Bình) nên người đời ngưỡng mộ gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan. Vốn là nữ sĩ có nhan sắc và đức hạnh, bà còn là một người nổi tiếng có học vấn tài hoa. Bà huyện Thanh Quan từng được vua Tự Đức mời vào cung làm nữ quan “cung trung giáo tập”.
Nữ sĩ đã để lại cho nền văn học nước nhà gần 10 bài thơ nôm kiệt tác, trong đó Qua đèo ngang như một bút ký – thơ thấm đượm chất trữ tình. Khi phân tích bài thơ Qua đèo ngang, tất cả chúng ta sẽ thấy giá cả tương đối rẻ trị của tác phẩm cũng như hiểu vì sao qua bao thế kỷ mà bài thơ vẫn gắn bó với tâm hồn hàng triệu người.
Đèo Ngang thuộc giải Hoành Sơn, nằm trong lòng địa giới hai tỉnh tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình. Đây là một con đèo vào loại đẹp của đất nước ta. Có lẽ người nữ sĩ đã tạo nên kiệt tác này khi trên đường thiên lý, vượt đèo Ngang vào kinh đô Phú Xuân.
Với những tâm trạng của người lữ khách, cùng với cảm hứng của tao nhân dào dạt, đối cảnh sinh tình, bà huyện Thanh Quan đã viết nên những vần thơ tuyệt tác. Bài thơ Qua đèo ngang được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, luật trắc vần bằng. Đây là tác phẩm tả cảnh đèo trong một chiều ta cũng như cho thấy nỗi niềm tâm sự sâu kín của người nữ sĩ trên hàng phố tha hương…
Phân tích bài thơ Qua đèo ngang qua hai câu đề
Hai câu thơ đầu cho thấy vị trí cũng như thời khắc nữ sĩ đến với con đèo này. Hai từ “bước tới” gợi đến một sự ngạc nhiên khi nhìn thấy hay tiếp cận con đèo. Đó cũng là thời khắc “bóng xế tà” khi ngày đã sắp tàn và màn đêm đang dần buông xuống. Đứng trước con đèo với rừng núi hoang vu xa lạ, những xúc cảm của lòng người đã trào dâng. Tiếng “tà” với âm bằng xuất hiện trong văn cảnh tạo nên giai điệu buồn thương man mác, trở thành “vần” của ý thơ:
“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”
Câu thơ thứ hai đã cho thấy cận cảnh của con đèo, có hoa lá, đá, cỏ cây… Hai về của câu thơ tiểu so với sự xuất hiện tinh tế của điệp từ “chèn”, vừa sử dụng vần sống lưng “đá – lá”, lại vừa sử dụng vần chân “tà – hoa” đã làm cho nhạc điệu thơ du dương và réo rắt. Cảnh đèo hiện lên thật hoang vu và có chút cằn cỗi.
Khi phân tích bài thơ Qua đèo ngang, ta thấy nơi thâm sơn cùng cốc ấy nổi lên là những khóm hoa rừng (hoa mua, hoa sim). Không gian buổi chiều tà với việc hiện lên của sắc tím màu hoa là một nét chấm phá đầy biểu cảm với “hoa sim tím chiều hoang biền biệt” (Hữu Loan). Câu thơ thứ hai như một ý thơ tuyệt vời có nhạc và họa đan cài tinh tế.
Cảm nhận và phân tích bài thơ Qua đèo ngang của Bà huyện Thanh Quan
Phân tích hai câu thực trong bài thơ Qua đèo ngang
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Xem thêm : HƯỚNG DẪN Cách trình bày suy nghĩ và Nghị luận xã hội về Sự Tự Tin
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Khi phân tích bài thơ Qua đèo ngang của Bà huyện Thanh Quan, ta thấy hai câu thực trong tác phẩm nói về thế giới con người nơi đèo Ngang vào lúc chiều tà. Cảnh vật được miêu tả với không gian vô hạn từ xa và từ cao nhìn xuống. Cũng luôn tồn tại người nhưng thưa thớt “tiều vài chú”. Cũng luôn tồn tại chợ nhưng lại vắng vẻ cô liêu “chợ mấy nhà”. Cặp từ láy tượng hình (láy vần) là lom khom, lác đác kết phù hợp với các số từ như “vài chú” “mấy nhà” đã tạo lên giá trị đặc biệt quan trọng. Sự kết hợp tinh tế này đã gợi lên cuộc sống đời thường và dân dã nơi đèo Ngang trong thế kỷ 19 còn hoang vu và heo hút.
Ngoại cảnh đã hòa phù hợp với râm cảnh người nữ sĩ trong buổi chiều tà nơi đèo hút hút gió. Nữ sĩ đã sử dụng văn pháp miêu tả tượng trưng và ước lệ của thi pháp cổ (ngư, tiều, canh, mục) kết phù hợp với cảm hứng đầy thi cảm và sáng tạo.
Phân tích bài thơ Qua đèo ngang qua hai câu luận
“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
Cặp câu luận 5, 6 ý thơ đã được mở rộng từ trực giác nhìn thấy (với hình ảnh người, sông, chợ đã chuyển sang nói về những âm thanh nghe thấy. Nghệ thuật và thẩm mỹ đối và quần đảo ngữ được sử dụng ở phần thực đã tiếp tục được phát huy tác dụng một cách triệt để ở phần luận. Đó là tiếng chim cuốc cuốc, chim gia gia trong bóng chiều tà. Đó là “nhớ nước đau lòng” và “thương nhà mỏi miệng” đã được đặt trong thế đăng đối và hòa hợp.
Đó là một nét nhạc buồn nhưng lại rất gợi cảm. Có người nhận định rằng vần thơ của nữ sĩ đã nhuốm sắc tố hoài cổ, tạo nên nhiều liên tưởng man mác và bâng khuâng. Ý thơ đã thể hiện người nữ sĩ lấy ngoại cảnh để phô diễn tâm tình. Đó cũng là một nét đặc sắc và nổi bật trong phong cách sáng tác của bà huyện Thanh Quan. Thơ tả cảnh ngụ tình nên nhạc, nên họa đã diễn tả cảnh đèo Ngang lúc hoàng hôn với nỗi niềm thi sĩ làm ta cảm thương, vương vấn.
Phân tích bài thơ Qua đèo ngang qua hai câu kết
“Nghỉ chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
Khi phân tích bài thơ Qua đèo ngang, ta thấy hai câu thơ kết cuối bài như dồn lại biết bao nhớ thương sâu lắng và dạt dào của người nữ sĩ trong khung cảnh chiều tà. Đứng một mình nơi đèo cao lộng gió trong buổi hoàng hôn, nữ sĩ thấy mình như sống trong tâm trạng lẻ bóng, cô đơn, giữa một khung cảnh thiên nhiên hoang vắng bát ngát của “trời, non, nước”.
Hai chữ “đứng lại” diễn tả một tư thế, một tâm trạng xúc động và bổi hổi. “Ta với ta” là ba chữ đắt giá kết phù hợp với điệp ngữ láy âm, đặt trong mối tương phản với “trời, non, nước” đã cho thấy cái mênh mang bát ngát với việc lẻ loi, đơn côi và nhỏ bé của lòng người. Nó gợi lên một sự trống vắng không thể nào kể xiết. Cái “mảnh tình riêng” như tan vụn ra, biết ngỏ cùng ai?. Quê nhà, những người dân thân thương đều ở phía mờ xa, khó chạm đến. Người nữ sĩ như đang sống trong nỗi buồn thương vô hạn.
Có thể thấy, tính truyền cảm là một trong những đặc trưng của ngôn ngữ đã tạo nên tính thẩm mĩ, vẻ đẹp văn chương của tác phẩm “Qua đèo ngang”
Qua đèo ngang là bài thơ nôm kiệt tác được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Giọng thơ du dương diễn tả khúc nhạc tâm tình, man mác đầy bâng khuâng của tác giả. Cảnh và tình, thiên nhiên và con người, đã được nữ sĩ miêu tả bằng ngôn ngữ thơ đầy trang nhã và điêu luyện. Khi phân tích bài thơ Qua đèo ngang, ta thấy đây là một trong những bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc và hấp dẫn nhất.
Qua việc cảm nhận và phân tích bài thơ Qua đèo ngang, người đọc đã thấy rõ tài năng cũng như nỗi lòng của bà huyện Thanh Quan trên đường vào kinh nhậm chức Cung Trung Giáo tập. Đó là nỗi buồn man mác, nỗi nhớ nhà và nhớ quê da diết khi đứng trước khung cảnh rộng lớn, hoang vu của Đèo Ngang.
Hy vọng qua nội dung bài viết trên đây về chủ đề cảm nhận và phân tích bài thơ Qua đèo ngang của Bà huyện Thanh Quan đã cung cấp cho bạn những kiến thức cần thiết và hữu ích. Chúc bạn luôn học tốt!
Xem thêm:
- Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh – Ngữ Văn 7
- Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Rằm tháng giêng của Hồ Chí Minh
Nguồn: https://bankstore.vn
Danh mục: Giáo Dục