X
    Categories: Giáo Dục

Nêu Cảm nhận của bản thân về 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang của Huy Cận

Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang của Huy Cận để thấy nỗi buồn thiên cổ của tất cả một thế hệ mang trong mình cái tôi của sự việc cô đơn, buồn tủi và bế tắc trước thời cuộc. Hình ảnh về một dòng sông mênh mang với nỗi sầu trải dài vô tận đã thể hiện nỗi buồn của nhà thơ trước thế thái nhân tình với những nỗi sầu nhân thế. Không những thế, Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang còn tựa hình gợi lên tình yêu quê nhà đất nước của nhà thơ. Nội dung nội dung bài viết về sau của Bankstore sẽ cùng bạn tìm hiểu, bình giảng và cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang của Huy Cận.

Ngữ văn 11: Tràng giang của Huy Cận | HỌC247


Phần 1: TÁC GIẢ HUY CẬN

1. Giới thiệu sơ lược tác giả Huy Cận [02:17]

Phần 2: BÀI THƠ TRÀNG GIANG

1. Tìm hiểu chung bài thơ Tràng giang [08:36]

2. Nhan đề và lời đề từ [17:13]

3. Đoạn 1: Sóng gợn tràng giang…lạc mấy dòng [25:28]

4. Đoạn 2: Lơ thơ cồn nhỏ…bến cô liêu [43:51]

5. Đoạn 3: Bèo dạt về đâu…tiếp bãi vàng [01:01:12]

6. Đoạn 4: Lớp lớp mây cao…cũng nhớ nhà [01:16:01]

Phần 3: TỔNG KẾT

1. Giá trị nội dung, tư tưởng toàn bài thơ [01:31:47]

Cảm ơn các em đã theo dõi video bài giảng Tràng giang – Huy Cận của cô Phan Thị Mỹ Huệ trên kênh HỌC247 trung học phổ thông. Nội dung bài giảng sẽ giúp các em cảm nhận được nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, nỗi sầu nhân thế, niềm khao khát hòa nhập với cuộc đời và tình cảm so với quê nhà đất nước của Huy Cận. Đồng thời giúp các me thấy được sắc tố cổ điển trong một bài thơ mới.

👉 Đăng kí học miễn phí tại: https://goo.gl/n6GJ6A

👉 LIKE và SHARE các bài giảng để bạn bè cùng vào học tập nhé!

👉 Xem soạn bài Tràng giang tại: https://goo.gl/qdAogm

— Theo dõi HỌC247 trên MXH —

+ Facebook: https://goo.gl/DA4RDi

+ Youtube: https://goo.gl/n6GJ6A

+ Website học tập: hoc247.vn và hoc247.net

— Xem video bài giảng kế tiếp —

“Luyện thi trung học phổ thông QG môn Ngữ Văn – Cô Phan Thị Mỹ Huệ | HỌC247: https://goo.gl/f8rbeQ

“Bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử” https://goo.gl/n6GJ6A

Mong được sát cánh đồng hành cùng các em học sinh

Trân trọng!

—————————————-

© Copyright by HỌC247 trung học phổ thông ❌ Do not Reup ❌

Một số mở bài cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang

Mở bài 1:Cái buồn Lửa Thiêng đây là cái buồn tỏa ra từ đáy hồn của một người cơ hồ không nghe biết ngoại cảnh” – Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét như vậy về hồn thơ Huy Cận. Tràng Giang là tác phẩm tiêu biểu cho nỗi sầu nhân thế, cho những nỗi niềm hoài cổ, về nhân tình thế thái của nhà thơ. Trong số đó, hai khổ thơ cuối đã thể hiện rõ nét tâm trạng sầu muộn ấy. Bình giảng và cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang để thấy “Nhà thơ đã gọi dậy cái hồn buồn của Ðông Á, đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm đã ngấm ngầm trong cõi đất này”.

Mở bài 2: Con người trước không gian rộng lớn bát ngát luôn có cảm giác nhỏ bé, rợn ngợp. Đứng trước không gian ấy, con người thường có nhiều chiêm nghiệm suy ngẫm về cuộc đời để rồi nhận ra sao ta cô đơn quá. Đó cũng đây là nỗi niềm của Huy Cận khi đứng trước không gian trùng điệp rộng lớn của Tràng giang. Sự cô đơn nhỏ bé ấy được thể hiện rõ trong hai khổ cuối của bài thơ.

Mở bài 3: Huy Cận là một trong những cây bút tiêu biểu cho trào lưu Thơ Mới (1930-1945). Thơ ông vừa đậm sắc màu cổ điển lại giàu chất suy tư triết lý. Tác phẩm Tràng giang là tứ thơ đặc sắc thể hiện phong cách sáng tác của nhà thơ. Bài thơ được viết vào ngày thu năm 1939 và trích từ tập “Lửa thiêng”. Nỗi sầu đong đầu phủ bóng của nhà thơ trước thiên nhiên hiu quạnh mênh mang đã thấm đượm tấm lòng của nhà thơ so với quê nhà đất nước. Đặc biệt quan trọng là trong tứ thơ cuối đã thể hiện rõ nét điều này. Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang cho thấy “Người như lạc loài giữa cái mênh mông của không gian, cái xa vắng của thời gian, lời thơ cũng vì thế mà buồn rười rượi” (Hoài Thanh).

Sơ nét về nhà thơ Huy Cận và tác phẩm Tràng giang

Trước lúc cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang cũng như tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật và thẩm mỹ của tác phẩm, bạn phải nắm được sơ nét về tác giả và tác phẩm.

Những nét chính về tác giả Huy Cận

Huy Cận sinh vào năm 1919 mất năm 2005. Tên thật của Huy Cận là Cù Huy Cận. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận ở quê xong sau đó vào Huế học trung học, rồi đậu tú tài tại Pháp. Sau đó ông ra Hà Thành học trường Cao đẳng Canh nông.

Đến năm 1942, ông bắt đầu có mặt trong một số hoạt động cách mệnh như trào lưu Sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh. Ông từng tham dự hội nghị Tân Trào và được bầu vào Ủy ban Giải phóng (tức Cơ quan chính phủ Cách mệnh lâm thời sau đó). Ông còn từng giữ nhiều nghiệp vụ quan trọng trong cỗ máy nhà nước như Bộ trưởng liên nghành Bộ Canh nông đầu tiên, Thứ trưởng rồi Bộ trưởng liên nghành Bộ Văn hóa truyền thống Thẩm mỹ và làm đẹp, Bộ trưởng liên nghành Bộ Văn hóa truyền thống giáo dục-đào tạo, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ Kinh tế tài chính, Bộ trưởng liên nghành Tổng Thư ký Hội đồng Bộ trưởng liên nghành (nay là Bộ trưởng liên nghành Chủ nhiệm Văn phòng Cơ quan chính phủ).

Không chỉ hoạt động chính trị mạnh mẽ ông còn là một một nhà thơ xuất sắc của trào lưu Thơ mới. Huy Cận nổi lên trên văn đàn như một hiện tượng kỳ lạ với tập thơ đầu tiên – Lửa thiêng. Đến với Lửa thiêng người đọc phát giác một giọng thơ nồng hậu vừa phảng phất phong vị cổ điển vừa mang dấu ấn tiến bộ như nhiều nhà phê bình từng nhận xét hồn thơ của Huy Cận là một hồn thơ “ảo não” rất riêng, man mác một nỗi sầu thế kỷ.

Huy Cận sáng tác rất nhiều. Có thể nhắc tới những tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng; Đất nở hoa; Bài thơ cuộc đời; Hai bàn tay em; Phù Đổng Thiên Vương; sáu mươi; Chiến trường gần đến chiến trường xa; Họp mặt thiếu niên anh hùng; Những người dân mẹ, những người dân vợ; Ngày hằng sống ngày hằng thơ; Ngôi nhà giữa nắng, Hạt lại gieo, Tuyển tập Huy Cận tập I, Chim làm ra gió; Lời tâm nguyện cùng hai thế kỷ; Ta về với biển…

Hoàn cảnh ra đời bài thơ Tràng giang

Bài thơ Tràng giang được viết vào ngày thu năm 1939 khi tác giả đang đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng. Nhìn cảnh sông nước rộng lớn và suy nghĩ về kiếp người đây là nội dung của bài thơ. Đặc biệt quan trọng ở hai khổ cuối dường như không chỉ đơn thuần tả cảnh mà trong đó ta còn phát giác tâm trạng của thi nhân.

Tràng giang không những là tác phẩm điển hình cho hồn thơ Huy Cận mà còn tiêu biểu cho thơ ca lãng mạn (đặc biệt quan trọng là trào lưu Thơ Mới) trong giai đoạn 1932-1945. Cảnh chiều trong Tràng giang có chiều kích của không gian cao rộng, có sông nước mênh mang và tất cả đều tiêu sơ, hoang vắng, chất chứa nỗi sầu nhân tình thế thái…

Khung cảnh hoàng hôn sầu buồn trong Tràng giang của Huy Cận

Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang của Huy Cận

Sau khoản thời gian phân tích 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang thì để cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang, bạn phải tìm hiểu về nỗi buồn đượm sầu của nhà thơ, nỗi nhớ quê nhà, nỗi buồn của người lữ thứ trước khung cảnh hoàng hôn ấy.

Khung cảnh thiên nhiên đượm sầu và nỗi lòng cô đơn của nhà thơ

Nếu ở hai khổ thơ đầu là khung cảnh thiên nhiên sông nước rộng lớn ngợp trời:

“Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Thì đến khổ thơ thứ hai khung cảnh và điểm nhìn đã được thu hẹp hơn. Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang sẽ thấy rất rõ ràng nỗi sầu buồn trong tâm hồn của thi nhân.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Không còn là một trời rộng là sông lớn, từ cái nhìn toàn diện đã trở thành cái nhìn cận cảnh. Hình ảnh bèo quen thuộc xuất hiện. những cánh bèo mặt nước nhỏ bé thường gọi sự nhỏ bé của kiếp người. Cánh bèo mặt nước mong manh như chính kiếp người. Nếu cánh bèo mặt nước không thể tự di chuyển mà bị làn nước xô đẩy thì con người cũng thế. So với cuộc đời rộng lớn mênh mông thì con người chỉ là những hạt cát nhỏ bé trôi nổi giữa dòng đời.

Trong câu thơ dường như thoáng chút bất lực bế tắc. Không chỉ một cánh bèo mặt nước, một kiếp người mà “hàng nối hàng” nhiều kiếp người cũng đang lạc lõng bơ vơ giữa cuộc đời. Dường như không chỉ có Huy Cận cảm thấy cô đơn thấy lạc lõng ngay chính trên đất nước của mình mà là cả một tầng lớp thanh niên sinh ra trong thời loạn lạc của đất nước. Họ đều như những cánh bèo mặt nước kia lênh đênh không biết sẽ đi về đâu chỉ có đành phó mặc cho dòng đời xô đẩy

“Bâng khuâng đứng giữa đôi làn nước

Biết chọn một dòng hay để nước trôi.”

Huy Cận cũng thế nên ông thấu hiểu cho tình cảnh của những người dân thanh niên giống ông. Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang sẽ thấy chỉ một từ láy “mênh mông” nhưng đã và đang đủ diễn tả không gian rộng lớn của đất trời. Không gian như được mở rộng ra vô biên. Và trong không gian rộng lớn ấy chỉ có cánh bèo mặt nước nhỏ bé lênh đênh, thật cô đơn và tuyệt vọng.

Sau khoản thời gian vẽ ra không gian rộng lớn ấy, nhà thơ đã đi đến một điệp khúc “không” độc đáo. Điệp từ “không” được tái diễn hai lần trong lời thơ – “không một chuyến đò ngang”, “không cầu gợi chút niềm thân mật”. Không có gì cả, không có người cũng chẳng có sự vật. Nỗi cô đơn cứ thế mà ngự trị khắp nơi len lỏi vào không gian xen lẫn vào tâm hồn nhà thơ. Đó cũng đây là điều đã tạo sự cái điệu buồn miên man này.

Nhưng dường như không chỉ có cảnh vật cô đơn mà con người dường như cũng từ chối cả sự giao tiếp với thế giới xung quanh. Chính con người dường như cũng đang thu mình lại giữa sự cô đơn, khép lại tấm lòng của mình và từ chối giao tiếp với thế giới. Bến và đò vốn muôn đời nối liền nhau, nhắc đến bến là phải nghĩ đến đò nhưng trong câu thơ thì bến trống rỗng mà thuyền cũng chẳng đến. Bến đó nhưng nào có đợi mong thuyền hay một chuyến đò nào sang sông. Tất cả mọi sự vật đều từ chối sự kết nối.

Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang ta thấy từ láy “lặng lẽ” đã nhấn mạnh vấn đề thêm sự trống vắng tĩnh lặng đến đáng sợ nơi đây. Trong im vắng cũng đây là lúc người ta sống thật với lòng mình sống thật với những cảm xúc của mình. Nhưng trong im vắng người ta lại cảm thấy cô đơn nhiều hơn, để rồi cần tìm một nơi để nương tựa sẻ chia.

“Bờ xanh” tiếp “bãi vàng”, những gam màu đã bắt đầu xuất hiện. Nhưng có màu xanh tươi mát hay màu vàng ấm áp cũng không khiến cho bức tranh này tươi mới hơn mà ngược lại nó càng trở nên âm u tịch mịch. Những gam màu ấy chỉ càng khiến cho cảnh trở nên hiu hắt đìu hiu. Cảnh buồn thấm vào cảnh vào người hay chính nỗi buồn sự cô đơn của con người khiến cảnh vật cũng u ám như câu thơ của Nguyễn Du từng viết

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang sẽ thấy con người đang cô đơn lạc lõng trong không gian rộng lớn, trong thời gian mênh mông vô thủy vô chung của đất trời…

Nỗi nhớ quê nhà sâu lắng mà kín kẽ của nhân vật trữ tình

Thật không sai khi nói rằng thơ của Huy Cận có sự hòa quyện chặt chẽ giữa chất cổ điển và chất hiện tại. Điều đó được thể hiện rõ ở khổ thơ cuối:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang, ta thấy hình ảnh những đám mây chất chồng lên nhau được diễn tả thật hùng vĩ qua dòng phác họa “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Từ láy “lớp lớp” diễn tả khối lượng lớn, và dường như còn đang tiếp diễn. Sức sống ấy cứ dâng lên không sao kìm nén được. Sức sống ấy được diễn tả cô đọng qua từ “đùn”. Trong thơ văn, không ít nhà thơ đã dùng từ “đùn” để thể hiện sức sống của cảnh vật như Đỗ Phủ từng viết

“Giang giang ba lãng kiêm thiên dũng

Tái thượng phong vân tiếp địa âm.’

(Thu hứng)

(Sườn lưng trời sóng lượn lòng sông thẳm

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)

Hay Nguyễn Trãi cũng từng viết:

Rồi hóng mát thuở ngày trường

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”

(Cảnh ngày hè)

Huy Cận cũng sử dụng từ “đùn” ấy để diễn tả sự chất đống, chất dồn của đám mây. Những đám mây xếp chồng lên nhau tạo cho ta cảm giác như những núi bạc đã lơ lửng trên không. Hình ảnh hiện ra thật hùng vĩ làm thế nào. Trong bức tranh cổ thi ấy, nét động bắt đầu xuất hiện. Đầu tiên đây là “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Hình ảnh con chim cuối ngày thường gợi ra một cảm giác chán chường mệt mỏi như trong câu thơ của Bà huyện Thanh Quan.

“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn”.

Hay trong câu thơ của Hồ Chí Minh

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”.

Cánh chim của Huy Cận cũng thế chở đầy mệt mỏi lo âu và cả sự cô đơn rợn ngợp. Chú chim nhỏ bé cô đơn giữa khung trời rộng lớn. Cánh chim nếu so với khung trời thật quá nhỏ bé cũng như con người với dòng đời này. Khi cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang, ta nhận ra cuộc đời này nếu so với dòng chảy vô tận của thời gian thì chẳng khác nào một hạt cát giữa sa mạc, một giọt nước giữa đại dương.

Nếu ở những dòng thời trên thời gian không xuất hiện cụ thể thì ở dòng thơ này thời gian đã được xác định “bóng chiều sa”. Giữa hai sự vật “chim nghiêng cánh nhỏ” và “bóng chiều sa” dường như không có sự kết nối, cho những người đọc tự liên tưởng. Chính vì vậy ta có cảm tưởng dường như cánh chim đang chở nặng bóng chiều hay chính cánh chim mỏi mệt đã nâng bóng chiều xuống. Nhưng dù hiểu Theo phong cách nào ta vẫn thấy hình ảnh ấy hiện ra thật tráng lệ.

Nỗi buồn của người lữ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp

Từ điểm nhìn trên cao, Huy Cận đã di chuyển điểm nhìn xuống mặt nước quen thuộc

“Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Lòng quê đây là tình cảm giành cho quê nhà đất nước. Hóa ra nhà thơ không chỉ quan tâm đến bản thân mà ngầm trong đó là một tình yêu nước thầm kín. Từ láy dợn dợn gọi tả sự chuyển động nhỏ nhưng diễn ra liên tục không ngừng nghỉ như một sự ám ảnh. Tình yêu so với quê nhà cũng thế có đôi khi mạnh mẽ có khi khi lại ẩn khuất trong cuộc sống nhưng nó vẫn tồn tại mãi ở đó không khác đi. Không nhắc về nói nhưng mỗi lần nhớ đến vẫn cảm thấy đau nói. Dùng sự vật biểu trưng để nhớ đến quê nhà không phải là điều xa lạ. Như Lí Bạch từng nhìn trăng mà nhớ quê nhà:

“Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê góp vốn đầu tư cố hương”

Hay Thôi Hiệu cũng từng:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”

Nhưng nếu các thi nhân xưa cần vật để gợi nhớ quê nhà thì Huy Cận đang ở trên quê nhà mà vẫn nhớ về quê nhà. Tại sao một con người đang đứng trên đất nước mình mà lại đi nhớ về quê nhà? Bởi lẽ quê nhà ta hiện giờ đang bị quân giặc giày xéo, đây không phải là quê nhà đúng nghĩa, nên dù đang đứng ngay trên quê nhà mình nhưng ông vẫn thấy cô đơn, thấy bơ vơ như những con người xa quê…

Nhìn nhận tác phẩm khi cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang

Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang nói riêng cũng như toàn bộ tác phẩm nói chung sẽ thấy bài thơ đây là một nỗi buồn cô đơn dài vô tận. Nỗi buồn ấy không chỉ tới từ vạn vật mà còn tới từ chính tâm trạng thi nhân. Đó là tâm trạng của một người không đạt được tự do trên chính đất nước mình. Giọng thơ đượm buồn kết phù hợp với những hình ảnh rộng lớn của không gian đã cho thấy được sự cô đơn nhỏ bé của kiếp người trước sự trôi nổi của dòng đời.

Kết bài cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang của Huy Cận

Cảm nhận bài thơ Tràng giang nói chung cũng như hai khổ thơ cuối nói riêng sẽ thấy tác phẩm là người thay mặt tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Huy Cận. Một chiếc buồn ảo não, một nỗi sầu nhân thế ngấm xuyên vào cảnh vật và vào cả lòng người. Cho nên vì vậy mà nhà thơ Lê Duy đã từng viết:

“Là Tràng Giang khổ nào thì cũng dập dềnh sóng nước,

Là tâm trạng, khổ nào thì cũng lặng lẽ u buồn…”

Dàn ý cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang của Huy Cận

Để giúp đỡ bạn nắm giá cực rẻ trị tư tưởng và nghệ thuật và thẩm mỹ của tác phẩm cũng như nội dung của nội dung bài viết, Bankstore sẽ giúp đỡ bạn lập dàn ý cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang.

Mở bài cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang

  • Đôi nét nổi bật về nhà thơ Huy Cận cùng hồn thơ của ông trong trào lưu Thơ Mới.
  • Giới thiệu tác phẩm Tràng giang cùng giá trị tư tưởng và nghệ thuật và thẩm mỹ.
  • Dẫn dắt vấn đề Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang của Huy Cận.

Thân bài cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang

  • Những nét chính về phong cách thơ Huy Cận cùng hoàn cảnh ra đời bài thơ Tràng giang.
  • Nỗi lòng, tâm tư cô đơn lạc lõng của nhà thơ trước khung cảnh thiên nhiên đượm sầu.
  • Tâm sự kín kẽ và sâu lắng cùng nỗi nhớ quê nhà của nhà thơ.
  • Khung cảnh hoàng hôn rợn ngợp và nỗi buồn của người lữ thứ.

Kết bài cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang

  • Tổng kết về ý nghĩa của bài thơ – giá trị của tác phẩm Tràng giang.
  • Bộc bạch những cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang của Huy Cận.

Tràng giang nói chung hay hai khổ thơ cuối nói riêng của tác phẩm đều thể hiện một bức tranh hoàng hôn đẹp của quê nhà. Một khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp nhưng đượm màu u buồn với những hình ảnh quen thuộc như mây trời, cánh chim, sông nước hay cánh bèo mặt nước trôi… Cho nên vì vậy mà Xuân Diệu từng ngợi ca: “Tràng giang đây là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”.

Có thể thấy, che phủ toàn bài thơ là một nỗi sầu buồn man mác, nỗi buồn của sự việc bất lực trước nhân tình thế thái – khi quê nhà bị giày xéo bởi kẻ thù xâm lược. Đó là một nỗi buồn thấm thía tận sâu thẳm tâm can của những chàng trai yêu nước nhưng chưa tìm ra con phố đúng đắn. Đó là sự việc tê tái của tâm hồn trải rộng khắp không gian và thời gian. Nỗi sầu ấy còn được thể hiện qua vẻ đẹp cổ điển và tiến bộ trong Tràng Giang… Như Hoài Thành đã nhận được xét về Huy Cận: “Người đã gợi dậy cái hồn buồn của Đông Á, người đã khơi gợi cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này”.

Nội dung bài viết trên đây của Bankstore đã cùng bạn cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài tràng Giang của Huy Cận. Mong rằng kiến thức trong nội dung bài viết đã cung cấp cho bạn những ý văn hay phục vụ cho quá trình tìm hiểu và cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang. Chúc bạn luôn học tốt! Nếu thấy hay nhớ rằng share bạn nhé!.

Nguyễn Thế Hoàng: Là một người đam mê tìm hiểu về kinh doanh, tài chính, ngân hàng, chuyên hỗ trợ tư vấn doanh nghiệp về các thủ tục pháp lý, cách thành lập công ty, làm báo cáo thuế, bảo hiểm.